Căn cứ quy định tại Điều 646 Bộ luật Dân sự 2015 di tặng được quy định như sau:
“1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
2. Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
3. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.”
Qua quy định trên có thể thấy, di tặng là một phần (hiểu như di sản thờ cúng) tài sản mà người lập di chúc tặng cho người khác với một ý nghĩa kỷ niệm. Với ý nghĩa đó, giữa người lập di chúc và người được hưởng tài sản có một quan hệ thân thiết nhất định. Người có tài sản muốn giữ tình cảm tốt đẹp đó bằng cách tặng một “món quà” làm kỉ niệm. Người được hưởng tài sản di tặng có quyền sử hữu với phần tài sản đó mà không phải gánh chịu nghĩa vụ của người chết để lại. Trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán các nghĩa vụ, phần tài sản thuộc di tặng được dùng để thực hiện nghĩa vụ còn lại của người đã chết.
Như vậy, khi so sánh giữa di tặng và di chúc, chúng ta có thể xem xét các tiêu chí sau:
Về phương thức thể hiện, có thể thấy cả di chúc và di tặng đều được ghi nhận bằng di chúc hợp pháp.
Về ý chí của chủ sở hữu tài sản, di tặng và di chúc có điểm chung chính là phát sinh trên cơ sở ý chí định đoạt đơn phương của người lập di chúc và đều là sự chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của người này sang cho người khác.
Về thời điểm có hiệu lực, Di tặng chỉ được nhận tài sản khi người lập di chúc, di tặng chết, nếu còn sống thì vẫn chưa được nhận. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật dân sự 2015.
Về người thừa kế hay người được di tặng, điểm giống là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Điểm khác là về nghĩa vụ của người nhận di sản đối với di chúc và người được di tặng. Đối với trường hợp di chúc thì những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi không vượt quá phần tài sản mà mình nhận được. Đối với di tặng thì Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng.
Trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.
————-
ANSG LAW – Luật sư di chúc


